• :
  • :
Học viện Lục quân: "Kiên định vững vàng - Đoàn kết nhất trí - Chủ động sáng tạo - Khắc phục khó khăn - Hoàn thành nhiệm vụ"
Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 156
Tháng 08 : 25.649
Tháng trước : 34.958
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Vận dụng nghệ thuật lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX, đánh dấu bước ngoặt trọng đại khi lần đầu tiên chính quyền nhà nước thuộc về nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thắng lợi đó không chỉ chấm dứt ách thống trị của chế độ thực dân, phong kiến kéo dài hàng thế kỷ, mà còn mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Đồng thời, phản ánh bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn và năng lực hành động của Đảng trong quy tụ, lãnh đạo toàn dân tộc vùng lên giành quyền làm chủ. Điều này được biểu hiện cụ thể trên các phương diện:

Một là, nghệ thuật nắm tình hình và xác định đúng thời cơ cách mạng.

Trong hoạt động quân sự, năng lực nắm bắt tình hình và xác định đúng thời cơ luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có thể quyết định sự thành bại của một trận chiến đấu hay một cuộc chiến tranh. Thời cơ không phải là một khoảnh khắc mang tính tình cờ, mà là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, chủ động và có tính chiến lược cao. Nắm đúng thời điểm, hành động đúng thời điểm sẽ tạo nên ưu thế chủ động, đột phá được thế cục, buộc đối phương không kịp trở tay. Tư tưởng chỉ đạo này được Hồ Chí Minh khái quát trong bài Học đánh cờ: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí/Gặp thời, một tốt cũng thành công”(1).Trong lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ nghệ thuật nắm tình hình và xác định thời cơ một cách linh hoạt, khoa học và quyết đoán. Khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng quân đồng minh, hệ thống chính quyền tay sai ở Đông Dương rơi vào trạng thái tê liệt, xã hội lâm vào khoảng trống quyền lực. Cùng với đó, phong trào cách mạng trong nước phát triển mạnh mẽ, khí thế quần chúng sục sôi, sẵn sàng vùng lên giành chính quyền. Đây là thời điểm lịch sử hiếm có, khi cục diện quốc tế, khu vực và trong nước cùng lúc tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa. Nắm bắt chính xác diễn biến tình hình, Đảng đã kịp thời triệu tập Hội nghị toàn quốc (13-15/8/1945), thống nhất nhận định: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi,… Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”(2). Quyết sách này thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, khả năng phân tích và dự báo chiến lược sắc sảo, cũng như tinh thần hành động khẩn trương, dứt khoát. Ngay sau hội nghị, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, Lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố; cả nước bước vào cao trào giành chính quyền với thế chủ động tuyệt đối.

Sự lãnh đạo kịp thời, quyết đoán của Đảng và lời hiệu triệu mạnh mẽ của Hồ Chí Minh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ”(3) đã khơi dậy tinh thần yêu nước và ý chí hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Chính nhờ vậy mà cuộc tổng khởi nghĩa đã diễn ra nhanh chóng, đồng loạt, giành thắng lợi chỉ trong vòng 15 ngày, làm tan rã hệ thống chính quyền cũ một cách nhanh chóng, hạn chế tối đa tổn thất, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Hai là, nghệ thuật chuẩn bị lực lượng và chuyển hóa phong trào quần chúng thành cao trào khởi nghĩa, giành thắng lợi trong cách mạng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng lực lượng đối với tiến trình cách mạng đấu tranh giành chính quyền, ngay từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5 năm 1941), Đảng ta đã xác định rõ năm điều kiện cơ bản cần thiết để tiến hành tổng khởi nghĩa: củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng; xây dựng lực lượng vũ trang; bồi dưỡng lý luận, kỹ năng khởi nghĩa cho cán bộ, đảng viên; và phát triển tổ chức Đảng trên cả địa bàn thành thị và nông thôn. Đặc biệt, Trung ương nhấn mạnh phương châm hành động phải dựa vào sức mình là chính: “Công việc giải phóng dân tộc của ta phải tự ta làm lấy, sức ủng hộ bên ngoài nếu có thể chỉ là thêm vào mà thôi”(4). Điều này thể hiện tư duy độc lập, tự chủ của Đảng trong chuẩn bị cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trên cơ sở định hướng đó, công tác chuẩn bị lực lượng được triển khai đồng bộ cả về chính trị, quân sự và hậu cần. Mặt trận Việt Minh đóng vai trò nòng cốt trong việc tập hợp lực lượng toàn dân, quy tụ các tầng lớp xã hội thông qua hệ thống tổ chức cứu quốc rộng khắp như: công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc,… Các phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh mẽ trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng và đô thị, tạo nên thế trận chính trị - xã hội sâu rộng. Song song với đó, các phong trào vũ trang quần chúng được thúc đẩy, các đội tự vệ và du kích cứu quốc lần lượt ra đời, hoạt động linh hoạt, hiệu quả, từng bước gây dựng hai căn cứ địa chiến lược là Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai, hợp thành Khu giải phóng Việt Bắc - hậu phương vững chắc của cách mạng cả nước.

Điểm đặc biệt trong nghệ thuật chuẩn bị lực lượng và chuyển hoá phong trào quần chúng thành cao trào khởi nghĩa của Đảng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, giữa xây dựng tổ chức quần chúng với phát triển lực lượng vũ trang và xây dựng căn cứ địa cách mạng. Các phong trào đấu tranh từng phần không chỉ góp phần duy trì khí thế cách mạng mà còn rèn luyện, nâng cao ý chí, bản lĩnh và kỹ năng chiến đấu cho quần chúng. Nhờ đó, khi thời cơ xuất hiện, toàn bộ lực lượng của ta đã đồng loạt hành động, nhanh chóng chuyển hóa từ phong trào thành cao trào Tổng khởi nghĩa mạnh mẽ, rộng khắp, giành chính quyền trong thời gian ngắn.

Ba là, nghệ thuật khơi dậy và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh giành chính quyền.

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng. Hồ Chí Minh thường xuyên khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”(5). Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nghệ thuật khơi dậy và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được thể hiện ở việc khơi dậy, tổ chức và hướng dẫn hành động cách mạng của toàn dân. Đảng kiên định phương châm “dân là gốc”, quần chúng nhân dân vừa là chủ thể, vừa là động lực của cách mạng lấy mục tiêu chung là độc lập dân tộc làm phương thức tập hợp lực lượng cách mạng “Không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị, miễn là tán thành nền độc lập của Tổ quốc”(6).  

Bằng việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa công tác tuyên truyền, giác ngộ chính trị với tổ chức phong trào hành động cụ thể, Đảng đã xây dựng được một khối đại đoàn kết toàn dân tộc bền chặt, thống nhất cả về mục tiêu chiến lược lẫn ý chí hành động. Nhờ đó, khi thời cơ khởi nghĩa chín muồi, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được huy động và phát huy đến mức cao nhất: mọi tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược đồng loạt vùng lên, cùng phối hợp giữa đấu tranh chính trị với hoạt động vũ trang. Sự phối hợp đồng bộ này tạo nên một sức ép toàn diện, làm tê liệt nhanh chóng bộ máy chính quyền thực dân - phong kiến.

Bài học từ thắng lợi vang dội của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho thấy, mọi thành quả của cách mạng đều bắt nguồn từ việc nắm chắc tình hình, nhận diện chính xác thời cơ, chuẩn bị lực lượng chu đáo, tổ chức hành động quyết liệt và biết khơi dậy, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong điều kiện lịch sử mới, bài học kinh nghiệm ấy cần được cụ thể hóa bằng những giải pháp đồng bộ, có tầm nhìn dài hạn, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; giữa xây dựng tiềm lực quốc gia với nâng cao vị thế đối ngoại; giữa phát triển bền vững với bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong đó, cần coi trọng thực hiện các giải pháp cụ thể như: nâng cao năng lực dự báo, tận dụng thời cơ để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội và tạo thế đan cài bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng; chủ động xây dựng, phát huy các nguồn lực nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống; thường xuyên quan tâm củng cố, tăng cường nguồn sức mạnh nội sinh trong xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc./.

Tài liệu tham khảo:

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.287.

(2), (3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.366, 418.

(4) Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.236.

(5) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.612.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.147.

H.N.S


Tác giả: KMLNTTHCM. Hoàng Ngọc Sơn
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thông báo mới
Thư viện ảnh
Thăm dò ý kiến
GIAO DIỆN

Bạn thấy giao diện của trang website Học viện Lục quân như thế nào?