• :
  • :
Học viện Lục quân: "Kiên định vững vàng - Đoàn kết nhất trí - Chủ động sáng tạo - Khắc phục khó khăn - Hoàn thành nhiệm vụ"
Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 1.193
Tháng 06 : 26.689
Tháng trước : 48.223
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

“Cần, kiệm, liêm, chính” theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, Người là lãnh tụ thiên tài của Nhân dân Việt Nam. Người luôn đề cao và thực hiện “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”; đồng thời yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện những đức tính quý báu đó. Năm 1949, Bác viết tác phẩm: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” gồm 4 bài báo với bút danh là Lê Quyết Thắng đăng trên Báo Cứu Quốc các số ra từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 02 tháng 6 năm 1949 để giải thích rõ nội dung 4 đức tính này. 

Người coi “Tứ đức” là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc và luận giải “Tứ đức” trong tổng thể của trời, đất, con người và mối quan hệ của mùa - trời; của phương - đất; của đức - người.

Mở đầu tác phẩm, Người khẳng định:

“Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc.

Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính

Thiếu một mùa thì không thành trời

Thiếu một phương thì không thành đất

Thiếu một đức thì không thành người”

Người phân tích từng đức tính để “Cho mọi người hiểu rõ, mọi người đều thực hành.”

Trong đoạn viết về “Cần”, Bác giải thích rõ: “Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”.

Bác nhấn mạnh: “Người siêng năng thì mau tiến bộ; cả nhà siêng năng thì chắc ấm no; cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh; cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu”.

Bác chỉ rõ: “Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc. Nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng… Vì vậy, siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau”. Theo Bác: “Lười biếng là kẻ địch của chữ Cần, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc. Do vậy, người lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc”.

Giảng giải về “Kiệm”, Người khẳng định: “Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Cần với Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người”. Rồi Người chỉ rõ mối quan hệ giữa Cần và Kiệm “Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển được….”

Không chỉ dừng lại ở tiết kiệm của cải, Bác còn nhắc nhở: “Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải. Của cải nếu hết, còn có thể làm thêm, khi thời giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được… Muốn tiết kiệm thời giờ, thì việc gì ta cũng phải làm cho nhanh chóng, mau lẹ. Không nên chậm rãi”.

Kết thúc bài báo, Người kết luận: “Kết quả Cần cộng với kết quả Kiệm là: bộ đội sẽ đầy đủ, nhân dân sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công, nước ta sẽ mau giàu mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến trên thế giới... Cho nên người yêu nước thì phải thi đua thực hành tiết kiệm”.

Phân tích về “Liêm”, Bác cho biết: “Liêm là trong sạch, không tham lam.” Liêm phải đi đôi với Kiệm, “Có Kiệm mới Liêm được” vì nếu sống xa xỉ, phung phí thì ắt sẽ sinh tham lam, ích kỷ.

Người chỉ rõ: “Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm….” Để thực hiện chữ “Liêm”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cần có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật”, “Cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân”. Mặt khác, Bác cũng cho hay “Quan tham vì dân dại”.

“Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “Quan” dù không Liêm cũng phải hóa ra Liêm. Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm....”

Người kết luận: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần là một dân tộc văn minh tiến bộ”.

Giải thích về “Chính”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chính nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Ðiều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn”.

“Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn”. Bác đã chỉ ra 3 mặt của một người trong xã hội và yêu cầu của mỗi mặt đó: Đối với mình - “Chớ tự kiêu tự đại”; Đối với người - “Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh kẻ dưới…”; Đối với việc - “Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà…”.

Ngày nay, thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho mọi cán bộ, đảng viên và Nhân dân, coi đó là một nội dung quan trọng trong công tác tư tưởng, văn hóa của Đảng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tứ đức “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” đã đi vào nếp nghĩ, thói quen, phong cách, lối sống của đa số cán bộ, đảng viên; đồng thời cũng là tiêu chuẩn phấn đấu, tiêu chí để phân loại, đánh giá chất lượng và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người.

Đất nước ta dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam. Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới là tiền đề để cán bộ, đảng viên và nhân dân ta tin tưởng vào tương lai ở phía trước. Tuy nhiên, thách thức đan xen đặt ra những yêu cầu cao cả về phẩm chất và năng lực đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên - không chỉ là tăng cường trau dồi kiến thức, nâng cao học vấn mà còn phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Do vậy, việc đẩy mạnh giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, chí công vô tư” cho cán bộ, đảng viên là một yêu cầu vừa mang tính cơ bản, lâu dài, vừa là đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.

Từ đó, phải hiểu một cách sáng tạo các vấn đề “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” mà Bác đề cập đến theo nghĩa rộng hơn, phù hợp hơn với hoàn cảnh hiện nay. Ngày nay, không thể hiểu “Cần” chỉ là sự cần cù, chịu khó, tự lực, tự cường, mà còn là trình độ tư duy, sự chủ động, nhạy bén nắm bắt thông tin, đánh giá tình hình, đề xuất phương hướng, giải pháp lãnh đạo, tổ chức thực hiện; sự năng động, sáng tạo trong xử lý các tình huống nảy sinh của thực tiễn.

“Kiệm” không chỉ là ý thức tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái lớn, tiết kiệm công quỹ của tập thể... mà còn đòi hỏi sự tỉnh táo, tinh tường, nắm bắt thời cơ, vận hội, cạnh tranh có hiệu quả để làm giàu cho đất nước; đồng thời, khắc phục có hiệu quả những thách thức, rủi ro, thất thoát đối với tài sản của Nhà nước, tập thể.

“Liêm” bên cạnh yêu cầu phải sống trong sạch, không tham tiền của, không nịnh trên, dối dưới... còn phải đấu tranh loại bỏ bệnh tham nhũng, sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, tính ưu việt của chế độ ta.

“Chính” vừa phải thẳng thắn, chính trực, làm điều thiện, tránh điều ác; còn phải công tâm, khách quan, dân chủ, gần gũi quần chúng, gần gũi cơ sở, tự phê bình và phê bình chân thực, thẳng thắn...

Cần thấm nhuần sâu sắc, làm theo lời dạy và tấm gương của Bác Hồ về Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Xây dựng xã hội ta thật sự là xã hội làm việc, xã hội học tập, xã hội năng động và có nhân cách cao đẹp. Làm được như vậy sẽ sớm đẩy lùi những tiêu cực, hư hỏng. Mỗi khi đất nước gặp khó khăn càng đòi hỏi sự đồng tâm, hiệp lực, bình tĩnh, chủ động tháo gỡ khó khăn, không hoang mang. Các địa phương, nhân dân cả nước đã và đang thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn và kịp thời của Ðảng và Chính phủ. Ðó là những việc làm thiết thực để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới phát triển đất nước, thực hiện lời dạy và làm theo tấm gương Cần, Kiệm, Liêm, Chính của Bác Hồ.

Nhân dịp kỷ niệm 76 năm Bác Hồ Bác viết tác phẩm: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong toàn Học viện tiếp tục quán triệt và triển khai hiệu quả các nghị quyết, chiến lược của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về giáo dục - đào tạo. Trọng tâm là thực hiện đồng bộ Đề án “Xây dựng Học viện Lục quân thông minh, hiện đại đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Mỗi cán bộ, giảng viên, học viên nêu cao tinh thần thi đua, thực hiện tốt phương châm: “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị” cần tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực phấn đấu thi đua lập nhiều thành tích thiết thực chào mừng kỷ niệm 79 năm Ngày Truyền thống Học viện Lục quân anh hùng (07/7/1946 - 07/7/2025) và Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học viện lần thứ XIV nhiệm kỳ 2025 - 2030./.

T.D.T


Tác giả: KQC. Trần Duy Thảo
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thông báo mới
Thư viện ảnh
Thăm dò ý kiến
GIAO DIỆN

Bạn thấy giao diện của trang website Học viện Lục quân như thế nào?