Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 750
Tháng 04 : 70.716
Tháng trước : 72.315
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam

Dù thực tiễn luôn vận động biến đổi và các thế lực thù địch phản động không ngừng đẩy mạnh âm mưu, thủ đoạn chống phá, nhưng bản chất cách mạng, khoa học là điều không thể phủ nhận, tạo nên giá trị, sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của đất nước là cơ sở khoa học, nhân tố quyết định để Đảng ta hoạch định chủ trương, đường lối đúng đắn, lãnh đạo đất nước tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1. Tiến trình cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin

Khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành đi tìm đường cứu nước, cứu dân (ngày 05/6/1911), nước ta đã mất độc lập chủ quyền. Nhân dân ta sống trong tình cảnh vong quốc, nước mất nhà tan, bị bóc lột, áp bức và nô dịch dưới ách thống trị của đế quốc thực dân Pháp cùng bè lũ phong kiến tay sai bán nước. Việt Nam đã trở thành một xứ thuộc địa dưới chế độ thực dân, nửa phong kiến. Đất nước chìm đắm trong đêm dài nô lệ, khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.

Cuộc hành trình tìm đường, chọn đường và nhận đường của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh kéo dài 30 năm (1911 - 1941). Bằng phương thức lao động vô sản hóa, Người đã lăn lộn trong thực tiễn đấu tranh giữa những người cùng khổ ở khắp các đại dương, châu lục để nhận rõ bản chất của kẻ thù và nhận thức tính tất yếu của con đường giải phóng dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản. Đó là cuộc cách mạng theo ý thức hệ tiên tiến nhất của thời đại - ý thức hệ của giai cấp công nhân, kết tinh thành tư tưởng - lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người sáng lập Đảng Cộng sản theo học thuyết Đảng kiểu mới của V.I.Lênin. Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941, Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dẫn tới thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, năm 1945, lập nên chế độ dân chủ cộng hòa, giành lại độc lập, khẳng định chủ quyền, đưa dân tộc và Nhân dân tới tự do và làm chủ. Đó là những bước ngoặt, những dấu mốc lịch sử đặc biệt quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Những bước ngoặt, những dấu mốc lịch sử ấy chẳng những được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn tỏ rõ thiên tài tư tưởng và tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cùng với những cống hiến vô giá của Người đối với dân tộc và quốc tế trong lịch sử hiện đại ở thế kỷ XX. Có thể minh chứng bằng một số sự kiện điển hình dưới đây:

Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin về quyền tự quyết của các dân tộc thuộc địa. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi. Giai cấp công nhân và Nhân dân lao động đã giành được quyền lực về tay mình. Nước Nga Xô viết xã hội chủ nghĩa đã ra đời, khai sinh cho chủ nghĩa xã hội hiện thực với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử thế giới dù là một hiện tượng đơn nhất nhưng đã mang ý nghĩa phủ định chủ nghĩa tư bản về nguyên tắc. Từ đấy, một thời đại mới, một kỷ nguyên mới đã mở ra - Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kỷ nguyên giải phóng các dân tộc bị áp bức, giành độc lập dân tộc và quá độ tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Chuyển biến có tính bước ngoặc đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là từ một người yêu nước với ý thức và tình cảm dân tộc sâu sắc đã trở thành một chiến sĩ cộng sản. Trên lập trường giai cấp công nhân, giác ngộ lý tưởng cộng sản, Người đã tán thành đường lối của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III), theo chủ nghĩa Lênin (Mác - Lênin) và con đường cách mạng vô sản. Người nhận rõ cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là hình mẫu điển hình về một cuộc cách mạng triệt để (cách mạng đến nơi) cần phải noi theo. Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tours, năm 1920. Bước ngoặc ấy dẫn đến sự kiện lịch sử trọng đại tiếp theo, sau một thập kỷ. Đó là năm 1930, Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Người không chỉ đặt tên cho Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn là tác giả đầu tiên, trực tiếp soạn thảo Chính cương, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, đồng thời viết thư gửi đồng bào cả nước, kêu gọi đồng bào ủng hộ Đảng, theo Đảng làm cách mạng giải phóng dân tộc, tự giải phóng chính mình. Chính cương, sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, ngay từ đầu đã đặt cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, đã xác định rõ mục tiêu và phương thức cách mạng là đi tới xã hội cộng sản, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong tiến trình cách mạng. Những tư tưởng đó của Đảng và của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chứng tỏ giá trị và ý nghĩa soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Nhờ đó, cuộc khủng hoảng triền miên về đường lối cứu nước đã được giải quyết và cách mạng Việt Nam đã được dẫn dắt bởi ý thức hệ tiên tiến nhất của thời đại. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm lý luận nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Đây là công trình khảo cứu lý luận và lịch sử có tầm vóc lớn được viết trên lập trường, quan điểm mácxít. Đó thực sự là một bản án, một văn kiện chính trị - pháp lý kết án tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa, bị áp bức ở Việt Nam và Đông Dương.

Hai mươi năm sau, ngày 02/9/1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập do chính Người soạn thảo tại Thủ đô Hà Nội, khai sinh nền cộng hòa dân chủ và nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Tuyên ngôn Độc lập cũng đồng thời là tuyên bố “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã được thi hành, từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, từ sức mạnh quyền lực của Nhân dân. Năm 1925 cũng là năm lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức và giáo dục nhóm chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi trong “Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí”, tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản. Vào lúc này, Người đã trù tính trong Điều lệ và chương trình hành động của Hội là, sau này, khi cách mạng thắng lợi và đi vào kiến thiết chế độ mới nhất định ta sẽ áp dụng “Tân kinh tế chính sách của Lênin” (Chính sách Kinh tế mới - NEP). Đó là mầm mống đầu tiên để hình thành tư tưởng đổi mới và hội nhập của Hồ Chí Minh sau này.

Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm “Đường kách mệnh” làm tài liệu huấn luyện về chiến lược và phương pháp cách mạng cho các lớp cán bộ đầu tiên của Đảng. Tác phẩm đã đặt nền móng tư tưởng - chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Đây cũng là tác phẩm lý luận đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, nhen nhóm các phong trào cách mạng. Đáng lưu ý là ngay mở đầu tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc đã đặt vấn đề đạo đức cách mạng lên hàng đầu, “Tư cách của người cách mệnh”. Đảng cách mạng không chỉ cần có lý luận tiên phong dẫn đường để làm tròn vai trò tiên phong của Đảng mà còn nhấn mạnh vào những điểm cốt yếu: làm cách mạng trước hết phải có Đảng lãnh đạo, với Đảng trước hết phải có chủ nghĩa dẫn đường. Đảng không có chủ nghĩa giống như người không có trí khôn, không có kim chỉ nam hành động. Chủ nghĩa, học thuyết nhiều nhưng chân chính cách mạng nhất, triệt để nhất thì chỉ có chủ nghĩa Lênin (chủ nghĩa Mác - Lênin). Đảng phải “giữ chủ nghĩa cho vững” và “ít lòng tham muốn về vật chất”. Đó là dự cảm đạo đức vô cùng sáng suốt của Người.

Cuộc khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực sau hơn bảy thập kỷ tồn tại và sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào thập kỷ cuối thế kỷ XX đã chứng thực những dự cảm sáng suốt đó.

Năm 1941, khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, quyết định chuyển hướng chiến lược, đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu, trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, giải quyết đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ giai cấp và dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Người, Đảng ta giương cao ngọn cờ đoàn kết, đại đoàn kết, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Người viết thư kêu gọi toàn quốc đồng bào đoàn kết để “đánh tan thù chung”, “cứu giống nòi ra khỏi cảnh nước sôi lửa nóng”, giành độc lập tự do… dẫn đến Cách mạng tháng Tám, giải quyết đúng đắn mối quan hệ Thời - Thế - Lực trong thực tiễn cách mạng, năm 1945.

Đó là một mẫu mực điển hình về tận dụng tình thế và thời cơ cách mạng, về xây dựng lực lượng và phát huy vai trò quần chúng Nhân dân trong sáng tạo lịch sử. Tầm nhìn chiến lược và tài năng tổ chức của Hồ Chí Minh trong những quyết định lịch sử tại Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội Tân Trào giữa tháng 8/1945, phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, tuyên bố độc lập trước khi quân đồng minh kéo vào Việt Nam cũng là một mẫu mực về sự kết hợp khoa học và nghệ thuật trong cách mạng giải phóng dân tộc, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Đó là những minh chứng về sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể của Việt Nam của Hồ Chí Minh. Đây là một ví dụ kinh điển chứng minh giá trị và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, của Đảng ta và thiên tài tư tưởng, tổ chức của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Năm 1946, Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu đã gây dựng nền móng chế độ dân chủ cộng hòa, giải quyết những di sản mục nát của đế quốc thực dân, phong kiến để lại, chủ động đối phó với chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, dựa vào sức mạnh toàn dân và phát huy cao độ sức mạnh của lòng yêu nước, “thà hy sinh tất cả quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ”, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “trường kỳ kháng chiến”, “kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành”. Trong thời kỳ 1946 - 1954, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam đã đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng nhưng miền Nam lại rơi vào sự thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu mới là đế quốc Mỹ.

 

Đảng ta đã kết hợp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, từ năm 1954 đến năm 1975, đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, thực hiện thống nhất Tổ quốc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, “đánh thắng hai đế quốc to” (chủ nghĩa thực dân kiểu cũ của Pháp và chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ). Đó là bằng chứng lịch sử về sức sống, ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng giải phóng và phát triển ở Việt Nam.

Những sự kiện lịch sử từ năm 1975 tới nay, nhất là qua 35 năm đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1986 - 2021), vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, có lúc hiểm nghèo, Việt Nam đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển, tiếp tục giữ vững phương hướng chính trị, hướng tới phát triển nhanh và bền vững. Đảng ta không chỉ trưởng thành về trình độ lý luận mà còn tỏ rõ bản lĩnh chính trị trong hơn 3/4 thế kỷ lãnh đạo và cầm quyền, để đưa Việt Nam tới cơ đồ và sự nghiệp như hiện nay.

 

Thực tiễn đã chứng minh những khẳng định có tính nguyên tắc của Đảng trong các cương lĩnh, các văn kiện đại hội theo suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo.

Thứ nhất, kiên định con đường cách mạng đã lựa chọn, trung thành với lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; với phương thức phát triển của Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là phương thức “phát triển rút ngắn” và “quá độ gián tiếp” phù hợp với xu thế khách quan của lịch sử, của thời đại và với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của Việt Nam. Đổi mới mang tầm vóc cách mạng, có nguyên tắc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam.

Thứ ba, đảm bảo vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng Cộng sản trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam trước đây và trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay.

2. Tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong những điều kiện lịch sử mới của đổi mới và hội nhập quốc tế, trong xu thế toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Một trong những luận điểm nổi tiếng của Đảng ta khi tổng kết thực tiễn ở tầm lý luận về quá trình đấu tranh cách mạng, hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là: Chân lý là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo. Luận điểm này được soi sáng bởi tư tưởng của V.I.Lênin, khi ông nhấn mạnh rằng, “Phân tích cụ thể một tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác”. Do đó, xét về mặt nguyên tắc và phương pháp, Đảng Cộng sản trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin là trung thành một cách sáng tạo chứ không phải máy móc, giáo điều. Cũng như vậy, Đảng ta luôn thấm nhuần chỉ dẫn khoa học và cách mạng của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng lý luận kinh điển mácxít vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là nguyên tắc tối cao của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin cốt là nắm lấy tinh thần và phương pháp của nó trong ứng xử với con người và công việc cho đúng. Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý rằng, phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn cách mạng, đứng vững trên lập trường quan điểm Mác - Lênin, dùng thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật để phân tích tình hình, nhận thức đúng các quy luật khách quan, xu thế vận động của lịch sử, phát hiện ra các mâu thuẫn phải giải quyết, phải nhận rõ dùng phương pháp nào, đi theo con đường nào để độc lập, tìm tòi đúng những câu trả lời của thực tiễn đang đặt ra, phù hợp với tình hình, đặc điểm nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ mà đặc điểm to nhất, khó khăn lớn nhất phải vượt qua là quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Người chỉ rõ, không nắm vững lý luận và phương pháp cách mạng thì không thể có năng lực sáng tạo để xác định đúng phương hướng, chiến lược và đường lối cách mạng.

 

Hồ Chí Minh không chỉ đề cao tính khoa học, tính Đảng trong việc nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn đề cao đạo đức và văn hóa, bởi chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là đỉnh cao của trí tuệ khoa học, kết tinh trí tuệ, tư tưởng của thời đại, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà còn là đạo đức cách mạng để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đảng cách mạng phải tiêu biểu cho đạo đức và văn minh. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, lấy đó làm nền tảng. Đức là gốc tạo thành nhân cách.

Người để lại lời căn dặn có giá trị bền vững và ý nghĩa thức tỉnh với tất cả mọi người. Người nói, đọc hàng trăm hàng ngàn quyển sách Mác - Lênin, thuộc bao nhiêu cuốn sách Mác - Lênin mà còn ăn ở với nhau không có tình có nghĩa thì làm sao gọi là hiểu Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là khoa học mà còn là đạo đức. Đó là sự thống nhất hữu cơ giữa khoa học - chính trị - đạo đức và văn hóa.

Những chỉ dẫn đó của Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng mácxít lỗi lạc và sáng tạo bậc thầy của cách mạng Việt Nam, vẫn mãi mãi có ý nghĩa soi sáng nhận thức, là kim chỉ nam hành động cho Đảng, cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta trong mọi thời kỳ cách mạng, nhất là trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập để phát triển nhanh và bền vững, để hiện đại hóa đất nước hiện nay.

Thấm nhuần những lời dạy của Người, Đảng ta khi khởi xướng đường lối đổi mới và trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối đổi mới hơn 35 năm qua và hiện nay đã chú trọng đổi mới tư duy, nỗ lực tìm tòi từ thực tiễn để đổi mới tư duy lý luận, hình thành những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thứ nhất, Đảng ta ra sức khắc phục những biểu hiện của bệnh giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tự phê phán và phê phán nghiêm khắc bệnh chủ quan duy ý chí, coi thường quy luật, làm trái quy luật đã từng mắc phải. Đã rút ra một trong những bài học quan trọng là tôn trọng quy luật khách quan cũng như bài học đặc biệt quan trọng khác là tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, coi “dân là gốc của nước” nên phải luôn luôn nhất quán với nguyên tắc lấy dân làm gốc”. Nhấn mạnh vai trò chủ thể, mục tiêu và động lực phát triển là Nhân dân và sức sáng tạo của Nhân dân nên phải ra sức thực hành dân chủ, dân vận và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là biểu hiện rõ nét và trực tiếp nhất về tính đúng đắn của sự trung thành một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn đổi mới. Thứ hai, trong những năm đầu của đổi mới, chúng ta đứng trước biến cố xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu, khi chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã tấn công một cách thâm độc và tinh vi vào nền tảng tư tưởng, vào ý thức hệ của những người cộng sản. Niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, vào chủ nghĩa xã hội bị thách thức nghiêm trọng. Đảng ta đã vượt qua thách thức đó bằng trí tuệ khoa học, bằng bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng để giữ vững phương hướng chính trị, kiên định lý tưởng và mục tiêu, kiên định con đường đã lựa chọn. Sự ra đời của Cương lĩnh 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã chứng tỏ điều đó. Chính nhờ có Cương lĩnh này - Cương lĩnh của đổi mới, Cương lĩnh của hội nhập, Đảng đã nêu cao ngọn cờ tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh, tập hợp được sức mạnh toàn dân tộc đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam lúc đó vượt ra khỏi tình huống hiểm nghèo, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, tiến tới ổn định và phát triển. Một trong những thành công lớn của Đảng là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển, không để xảy ra khủng hoảng chính trị như nhiều nước đã mắc phải, không mất phương hướng chính trị mà nhiều đảng cộng sản cầm quyền đã để xảy ra dẫn tới đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa và tự đánh mất vai trò cầm quyền của chính mình.

 

Thứ ba, bài học về lòng trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta đã được chứng thực trong thực tiễn đổi mới. Đảng ta đã ngày càng nhận thức rõ hơn những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết giữ vững nguyên tắc, bảo vệ và phát huy những giá trị bền vững đó (học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, quan niệm duy vật về lịch sử, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, bản chất, mục tiêu và các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, vai trò tiên phong của Đảng, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Dân, vai trò của nhân tố con người, của liên minh giai cấp của giai cấp công nhân, của văn hóa…). Mặt khác, nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện ở tư duy tự phê phán và phê phán đối với những nhận thức sai lầm trước đây, đã hiểu sai, làm sai chủ nghĩa Mác - Lênin, làm mất tín nhiệm của chủ nghĩa và học thuyết do giáo điều hóa, giản lược hóa gây ra, nay phải ra sức vượt qua, làm cho chủ nghĩa, học thuyết được thể hiện chân thực như chính bản thân nó. Đồng thời cũng tự mình nỗ lực nhận rõ những hạn chế lịch sử trong bản thân di sản để xác định trách nhiệm phải bổ sung, phải phát triển, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin sống động, phong phú, phù hợp với thực tiễn hiện nay. Đây là vấn đề vô cùng hệ trọng, phải “làm mới” chủ nghĩa Mác - Lênin bằng những tri thức mới, hiểu biết mới, bổ sung vào kho tàng kinh điển những cái mới chưa được các nhà kinh điển đề cập tới, do thời đại lịch sử mà các ông xây dựng nên học thuyết trước đây không đặt ra, càng chưa có những dữ kiện để giải quyết. Đây là một thử thách về lòng trung thành một cách có bản lĩnh. Rõ nhất là lý luận về con đường, về phương thức xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thế giới toàn cầu hóa và hội nhập, về kinh tế thị trường, về nhà nước pháp quyền, về Đảng cầm quyền.

Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh đã cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam. Nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh, rộng hơn là di sản của Người cũng ngày càng đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn. Trước đây, chúng ta thường nhấn mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh là vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nhận thức đó chưa đủ để hình dung hết tầm vóc Hồ Chí Minh với tư cách một nhà tư tưởng. Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng đúng đắn mà quan trọng và thực chất hơn, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Người có cống hiến lớn vào kho tàng lý luận kinh điển Mác - Lênin, có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới, nhất là lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở những nước bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Việt Nam. Người còn có cống hiến lớn trong lý luận đảng cộng sản cầm quyền ở tầm học thuyết và chủ thuyết xây dựng đảng cách mạng chân chính. Do đó, Hồ Chí Minh thực sự có những đóng góp mới làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên phong phú, sâu sắc hơn và cách mạng Việt Nam là một minh chứng đầy sức thuyết phục về giá trị và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Lần đầu tiên, một quan niệm khoa học về tư tưởng và di sản Hồ Chí Minh đã được Đảng nêu lên đầy đủ và trang trọng đưa vào Cương lĩnh của Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập. Từ chỗ nhấn mạnh học tập tác phong Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xác định sự cần thiết phải học tập và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng của Người. Từ chỗ nhấn mạnh tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xác định sự cần thiết phải học tập và làm theo cả tư tưởng lẫn đạo đức và phong cách của Người. Đó là một hệ thống chính thể toàn vẹn. Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh khát vọng Hồ Chí Minh, khát vọng Việt Nam - Đó là khát vọng phát triển một Việt Nam cường thịnh, cùng sánh vai với các cường quốc năm châu. Nêu cao khát vọng này là tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ, nêu cao sức mạnh toàn dân tộc, tạo ra những đột phá của phát triển. Từ thực tiễn Việt Nam, có thể nói, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là cách tốt nhất để tỏ rõ sự trung thành, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh chống lại mọi sự xuyên tạc, phủ nhận, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, hạ thấp tầm vóc tư tưởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta của các thế lực thù địch. Thành tựu lý luận này của Đảng ta là một cống hiến quan trọng vào việc bảo vệ những chân lý giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở trung thành bằng cách sáng tạo và phát triển nó.

Thứ năm, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Đảng ta nhấn mạnh “giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước” thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng hợp tác song phương và đa phương, đa dạng hóa, đa phương hóa, Đảng ta đã thiết lập quan hệ hợp tác với các đảng chính trị cầm quyền trên thế giới, không chỉ với các đảng cộng sản cầm quyền mà còn với các Đảng chính trị tư sản, các đảng xã hội dân chủ. Sự khác biệt ý thức hệ không thể trở thành rào cản không thể vượt qua trong hợp tác, cùng hợp tác, cùng đấu tranh, cùng cạnh tranh để phát triển mà không hề xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Đại hội XIII đã phát hiện quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp luật, pháp chế, kỷ cương xã hội. Đảng ta đã tỏ rõ thực hiện đúng di huấn của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo: Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phải làm đúng quy luật, phải thuận lòng dân và hợp thời đại. Đó là đảm bảo tối cần thiết để khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.

 

Dù thực tiễn luôn vận động biến đổi và các thế lực thù địch phản động không ngừng đẩy mạnh âm mưu, thủ đoạn chống phá, nhưng bản chất cách mạng, khoa học là điều không thể phủ nhận, tạo nên giá trị, sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của đất nước là cơ sở khoa học, nhân tố quyết định để Đảng ta hoạch định chủ trương, đường lối đúng đắn, lãnh đạo đất nước tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

N.V.L

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.


Tác giả: KCB. Nguyễn Văn Luật
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thông báo mới
Thư viện ảnh
Thăm dò ý kiến
GIAO DIỆN

Bạn thấy giao diện của trang website Học viện Lục quân như thế nào?