Nét đặc sắc trong phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh và giá trị vận dụng trong giảng dạy môn quan hệ quốc tế ở Học viện Lục quân hiện nay
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam hiện đại, Hồ Chí Minh không chỉ được biết đến là nhà tư tưởng, nhà cách mạng kiệt xuất mà còn là một nhà ngoại giao lớn, với tầm nhìn chiến lược và tư duy thực tiễn sắc bén. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là sự kết tinh, hòa quyện giữa truyền thống ngoại giao độc lập, tự chủ của dân tộc với giá trị văn hóa, văn minh nhân loại dưới ánh sáng ngọn đuốc soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính điều này đã hình thành nên một tư duy ngoại giao vừa kiên định về mục tiêu chiến lược, vừa linh hoạt về sách lược, có khả năng thích ứng cao trong các tình huống quốc tế phức tạp.
Một là, nghệ thuật “hòa để tiến” và nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là biểu hiện tiêu biểu cho tư duy biện chứng trong phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh: kiên định mục tiêu chiến lược nhưng linh hoạt trong sách lược hành động. “Hòa để tiến” thể hiện bản lĩnh mềm dẻo, tránh đối đầu trực diện khi tương quan lực lượng bất lợi, nhằm tạo thế và lực lâu dài cho cách mạng. Việc ký Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) là minh chứng điển hình, giúp tranh thủ thời gian, củng cố lực lượng, chuẩn bị cho kháng chiến. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đối thoại không đồng nghĩa với nhượng bộ; hòa hoãn không có nghĩa là đầu hàng, bởi hòa bình chỉ có ý nghĩa khi gắn liền với độc lập và chủ quyền quốc gia. Nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” chính là sự kết hợp giữa những giá trị nền tảng như độc lập, chủ quyền (bất biến) với sự linh hoạt trong ứng xử chiến lược (vạn biến). Tư duy này trở thành nền tảng cho các chiến lược hiện đại như “vừa đánh, vừa đàm”, “ngoại giao kép”, hay “ngoại giao phòng ngừa” trong suốt tiến trình cách mạng giải phóng đất nước.
Hai là, Hồ Chí Minh xác lập phương pháp ngoại giao dựa trên sự kết hợp hài hòa giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, một tư duy mang tầm chiến lược xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Sức mạnh dân tộc, theo Người, chính là nội lực bền vững của quốc gia: từ tinh thần yêu nước, khối đại đoàn kết toàn dân, đến bản lĩnh tự cường, văn hóa truyền thống và năng lực tự chủ về chính trị, kinh tế, quốc phòng. Trong khi đó, sức mạnh thời đại là xu thế tiến bộ chung của nhân loại, là sự đồng hành, ủng hộ từ cộng đồng quốc tế, nhất là các lực lượng yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn cầu. Tư duy này thể hiện rõ trong lời dạy của Hồ Chí Minh: “Dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của bạn bè quốc tế” (2). Từ đó, Người chủ trương củng cố thế trận trong nước và mở rộng mặt trận quốc tế, tạo nên thế và lực tổng hợp hiếm có cho cách mạng Việt Nam. Chính nhờ phương pháp này, Việt Nam chưa bao giờ đơn độc trong kháng chiến, mà luôn nhận được sự đồng cảm, hỗ trợ rộng khắp từ bạn bè quốc tế, góp phần nhân lên chính nghĩa và vị thế cách mạng của dân tộc.
Ba là, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và phát huy vai trò của ngoại giao nhân dân như một bộ phận hữu cơ, chiến lược trong phương pháp ngoại giao cách mạng. Theo Người, ngoại giao không chỉ là nhiệm vụ của cơ quan nhà nước, mà còn là công việc của toàn thể Nhân dân, từ các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể cho đến từng công dân. Đây là tư tưởng có tính đột phá, thể hiện nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa nhân dân và nhà nước trong công cuộc đối ngoại. Ngoại giao nhân dân, theo Hồ Chí Minh, là phương thức để lan tỏa chính nghĩa của cách mạng, xây dựng hình ảnh tích cực về đất nước, đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi từ cộng đồng quốc tế. Người sớm tổ chức các hoạt động ngoại giao văn hóa, học thuật, gửi thư, viết báo, tổ chức gặp gỡ quốc tế, qua đó tạo nên một “mặt trận ngoại giao nhân dân” hiệu quả, song hành cùng ngoại giao nhà nước. Ngoại giao nhân dân trở thành trụ cột trong xây dựng “sức mạnh mềm” của Việt Nam, giúp lan tỏa giá trị đạo lý, tinh thần hòa bình, lòng nhân ái và khát vọng độc lập đến bạn bè quốc tế.
Có thể thấy rằng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là kết tinh của tư duy chiến lược, bản lĩnh cách mạng và tinh thần nhân văn sâu sắc. Không chỉ có giá trị lịch sử trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, phương pháp ấy còn để lại một hệ giá trị lý luận và thực tiễn mang tính trường tồn, tiếp tục soi sáng đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng và là cơ sở khoa học quan trọng trong giảng dạy các môn lý luận chính trị, đặc biệt là môn Quan hệ quốc tế ở Học viện Lục quân hiện nay.
Thứ nhất, phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là kim chỉ nam định hướng cho cách tiếp cận lý luận và thực tiễn của giảng viên trong quá trình truyền đạt kiến thức môn học cho học viên. Giảng viên cần giúp học viên hiểu một cách sâu sắc rằng “bất biến” chính là nguyên tắc độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, còn “vạn biến” là nghệ thuật xử lý linh hoạt trong quan hệ quốc tế. Khi vận dụng tinh thần ấy, bài giảng không chỉ dừng lại ở phân tích lý thuyết, mà phải gắn với những tình huống cụ thể của ngoại giao quốc phòng Việt Nam hiện nay, như việc duy trì quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Qua đó, học viên hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng, biết vận dụng tư duy linh hoạt nhưng kiên định, giữ vững nguyên tắc trong mọi tình huống thực tiễn công tác sau khi tốt nghiệp, ra trường.
Thứ hai, tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có giá trị định hướng sâu sắc cho giảng viên trong quá trình giảng dạy, nhằm giúp học viên hiểu rằng trong quan hệ quốc tế hiện nay, sức mạnh tổng hợp của quốc gia không chỉ dựa vào tiềm lực quân sự mà còn phụ thuộc vào uy tín, văn hóa và năng lực hội nhập. Từ đó, làm cho người học biết phát huy nội lực, bản lĩnh, tri thức, kỷ luật, giá trị văn hoá “Bộ đội Cụ Hồ”; đồng thời biết tranh thủ ngoại lực, hợp tác quốc tế, tri thức khoa học, công nghệ quân sự hiện đại để hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trên từng cương vị chức trách được giao sau khi hoàn thành chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại Học viện. Phương pháp này cũng định hướng cho công tác giảng dạy ở Học viện theo hướng mở rộng liên hệ thực tiễn quốc tế, cập nhật các xu thế mới trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, giúp học viên có tầm nhìn toàn cầu nhưng vẫn kiên định lợi ích quốc gia - dân tộc.
Thứ ba, tinh thần ngoại giao nhân dân và ngoại giao văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh cần được khai thác sâu trong giảng dạy môn Quan hệ quốc tế để bồi dưỡng kỹ năng ứng xử, thuyết phục và hợp tác cho người sĩ quan trong môi trường quốc tế. Ngoại giao nhân dân theo Hồ Chí Minh là “ngoại giao của lòng dân, từ trái tim đến trái tim”, lấy sự chân thành, tin cậy và nhân văn làm nền tảng. Trong điều kiện hiện nay, khi các hoạt động giao lưu, phối hợp huấn luyện, diễn tập và hợp tác quốc phòng với các nước ngày càng mở rộng, việc trang bị cho học viên kỹ năng giao tiếp quốc tế, năng lực đàm phán, xử lý quan hệ đa phương và khả năng thích ứng văn hóa trở nên thiết yếu. Vì vậy, trong giảng dạy môn Quan hệ quốc tế, giảng viên cần gắn việc trang bị tri thức lý luận với các tình huống ngoại giao thực tiễn, diễn đàn học thuật, trao đổi để học viên rèn luyện kỹ năng thực tiễn, hiểu rõ giá trị nhân văn, hòa hiếu, hợp tác mà Hồ Chí Minh đã nêu gương.
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh không chỉ là di sản tư tưởng vĩ đại của dân tộc mà còn là định hướng phương pháp luận quý báu trong công tác giảng dạy và đào tạo cán bộ trung và cao cấp cho toàn quân ở Học viện Lục quân hiện nay. Vận dụng sáng tạo những giá trị ấy trong giảng dạy môn Quan hệ quốc tế giúp giảng viên làm sâu sắc hơn nhận thức của học viên về bản chất nhân văn, khoa học và cách mạng của đường lối đối ngoại Việt Nam; đồng thời, hình thành ở người học năng lực tư duy phân tích, phán đoán, dự báo tình hình quốc tế sắc sảo; có tầm nhìn quốc tế sâu rộng; luôn vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức và kiên định với mục tiêu lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của Nhân dân./.
Tài liệu tham khảo
(1). Hồ Chí Minh (1946), “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.534.
(2). Hồ Chí Minh (1967), “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.396.
H.N.S





