Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 216
Tháng 04 : 40.495
Tháng trước : 72.315
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đấu tranh các luận điệu xuyên tạc về quyền con người trên không gian mạng ở Việt Nam

Thời gian qua, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức huy động mọi nguồn lực để dập dịch COVID-19 và phát triển kinh tế thì các thế lực thù địch, cơ hội chống đối trong và ngoài nước đã lợi dụng không gian mạng, thường xuyên phát tán thông tin sai trái, nhằm chống phá Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Khi bị các cơ quan chức năng nhắc nhở, bắt giữ, xử lý theo quy định của pháp luật, lập tức họ cho rằng, Luật An ninh mạng của Việt Nam hà khắc, bóp chết tự do, dân chủ.

1. Không gian mạng là gì?

Hiện nay, có nhiều quan niệm, cách tiếp cận khác nhau về không gian mạng hay còn gọi là không gian ảo. Theo Khoản 3, Điều 1, Luật An ninh mạng năm 2018 của nước ta xác định: “Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian”.

Như vậy, không gian mạng là không gian ảo, nơi con người có thể liên lạc, kết nối, trao đổi, giao tiếp với nhau. Sự phát triển không gian mạng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng thông tin ở mỗi quốc gia. Hiện nay, ở Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung, không gian mạng rất rộng lớn, hệ thống các mạng đang được sử dụng bao gồm: trình duyệt web (Google, Chrome, Mozilla Firefox , Opera, Safari...); trang web tin tức (VnExpress, Tin tức, Zing news, VTC News...); mạng xã hội (Facebook, Twitter, YuMe, Instagram, Zing me, Youtube, Skype, WeChat, Google Plus, Go.vn...); tìm kiếm, tra cứu (Google map, Bing, Google Docs...); tiện ích (chuyển tiền, việc làm, email, thiệp điện tử...); trang mạng mua bán, kinh doanh, học tập, âm nhạc, giải trí.

2. Luật pháp quốc tế về nhân quyền

Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 và hai Công ước quốc tế về quyền con người năm 1966 (Công ước về quyền dân sự và chính trị - ICCPR; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa - ICESCR), cùng các nghị định thư bổ sung tạo thành Bộ luật quốc tế về quyền con người là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người hiện nay. Điều 2 của bản Tuyên ngôn năm 1948 quy định quyền con người: “không phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội…”. Đồng thời, quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân: (1) Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. (2) Trong khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.

Từ nguyên tắc quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm nêu trong bản Tuyên ngôn, hai Công ước năm 1966 đã phát triển và cụ thể hóa bằng các quy định cụ thể theo hướng xác định những quyền nào phải được thực hiện ngay. Đó là các quyền đòi hỏi nhà nước phải bảo đảm thực hiện ngay lập tức. Vì đấy là ranh giới, là “ngưỡng” của sự có hay không có quyền con người - quyền tuyệt đối. Quyền cần được thực hiện dần dần, từng bước, là các quyền đòi hỏi nhà nước từng bước có chính sách cụ thể để nâng cao đời sống, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân - quyền tương đối và các quyền có thể bị hạn chế - hạn chế quyền.

Nguyên tắc hạn chế quyền được quy định trong cả hai Công ước năm 1966 như sau:

Điều 4, ICECSR quy định nguyên tắc các quốc gia thành viên có thể đặt ra những giới hạn trong việc thực hiện quyền con người, với các điều kiện: Những hạn chế đó phải được quy định trong luật; không được trái với bản chất của các quyền có liên quan và vì lý do duy nhất nhằm thúc đẩy lợi ích chung trong một xã hội dân chủ. ICCPR quy định cụ thể các quyền con người có thể bị hạn chế và các lý do cho việc có thể áp đặt các hạn chế bao gồm: An ninh quốc gia; Trật tự công cộng; Đạo đức và sức khỏe cộng đồng; Quyền và tự do của người khác.

Trên cơ sở các nguyên tắc chung như trên, cả hai Công ước quy định cụ thể một số quyền bị hạn chế; trong đó, có quyền tự do ngôn luận (Khoản 2, 3, Điều 19 ICCPR) quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ.

Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: (1) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; (2) bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.

3. Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và việc hạn chế quyền của cá nhân, công dân trên không gian mạng

Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm tốt hơn quyền được thông tin của người dân. Đó là các luật, nghị định như: Luật Báo chí 2016, Luật Tiếp cận thông tin 2016, Luật An ninh mạng 2018, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”... Những văn bản này đều tuân thủ pháp quyền xã hội chủ nghĩa, theo đúng Hiến pháp 2013, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền và tự do, dân chủ của công dân trên môi trường mạng. Cụ thể:

Không gian mạng là không gian rộng lớn, cá nhân và bất kỳ cơ quan, tổ chức nào cũng đều có thể tự do bày tỏ quan điểm chính kiến, kết nối trao đổi với nhau. Đó là quyền tự do của cá nhân: quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin (tự do tìm kiếm, tiếp nhận và trao đổi thông tin) trên không gian mạng. Đây là quyền tự do cơ bản của công dân được pháp luật quốc tế, Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tôn trọng và bảo vệ.

Điều 11, Luật Báo chí năm 2016 quy định quyền tự do ngôn luận trên báo chí (báo giấy, báo hình, báo nói, báo chí điện tử - không gian mạng). Các quyền này của công dân bao gồm: (1) Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; (2) Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; (3) Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.

Tương tự, Luật Tiếp cận thông tin quy định, quyền của công dân được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời; khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin. Luật An ninh mạng quy định một trong những nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng là “bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng” (Khoản 3, Điều 4, Luật An ninh mạng). Như vậy, với hành lang pháp lý hiện nay, cá nhân, công dân có quyền tự do được sử dụng không gian mạng vì lợi ích cá nhân; có quyền được bảo vệ các quyền và tự do của mình từ phía các cơ quan công quyền và chủ động tự thực hiện quyền tự do cá nhân trên không gian mạng.

Đối với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân trên không gian mạng phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Mỗi cá nhân, công dân trong khi sử dụng, thực hiện các quyền và tự do của mình thì phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội, đối với quốc gia, dân tộc mà mình đang sống. Nghĩa là khi sử dụng, thực hiện quyền và tự do cá nhân không được làm ảnh hưởng hay xâm phạm an ninh quốc gia; trật tự công cộng, đạo đức xã hội; quyền và tự do của người khác. Vấn đề này theo chuẩn mực quốc tế được gọi là hạn chế quyền con người để bảo đảm vì lợi ích chung của xã hội, vì lợi ích cộng đồng trong một xã hội dân chủ; vì các lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, vì quyền và tự do của người khác. Luật An ninh mạng và các luật khác có liên quan đã quy định bằng các hành vi bị nghiêm cấm để cụ thể hóa nguyên tắc hạn chế thực hiện quyền và tự do cá nhân. Điều 8 Luật An ninh mạng quy định 6 nhóm hành vi bị nghiêm cấm gồm:

Một là, sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, gồm: (1) Đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 Luật An ninh mạng) và hành vi gián điệp mạng; xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng (quy định tại khoản 1, Điều 17 Luật An ninh mạng); (2) Chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc, đánh bạc qua mạng internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền internet; vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng; (3) Giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng trái phép các phương tiện thanh toán; (4) Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật; (5) Hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; (6) Hành vi khác sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;

- Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

- Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;

- Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;

- Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;

- Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

Hai là, thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

Ba là, sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người khác.

Bốn là, chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.

Năm là, lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.

Sáu là, hành vi khác vi phạm quy định của Luật này.

Như vậy, từ những viện dẫn trên cho thấy, giữa luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế về quyền con người cho thấy, cả hai đều có những điều khoản quy định quyền con người gồm: quyền tuyệt đối, quyền tương đối và quyền bị hạn chế. Những quyền bị hạn chế của Việt Nam được luật pháp quy định đều vì: An ninh quốc gia; trật tự công cộng; đạo đức và sức khỏe cộng đồng; quyền và tự do của người khác nên phù hợp với luật pháp quốc tế về nhân quyền. Luận điệu của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội cho rằng Việt Nam vi phạm tự do ngôn luận, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “bóp chết” những tiếng nói “dân chủ”... chỉ là những xuyên tạc, kích động nhằm mục đích làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Trong một xã hội dân chủ thì pháp luật phải được thượng tôn, điều đó đúng với mọi quốc gia dân chủ, không riêng gì Việt Nam./.

P.H.T


Tác giả: PTT. Phạm Hữu Trí
Tổng số điểm của bài viết là: 3 trong 2 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thông báo mới
Thư viện ảnh
Thăm dò ý kiến
GIAO DIỆN

Bạn thấy giao diện của trang website Học viện Lục quân như thế nào?