Ý nghĩa lịch sử ngày Thương binh, Liệt sĩ
Ngày 27 tháng 7 là ngày Thương binh, Liệt sĩ được tổ chức từ năm 1947 theo đến nay. Điều này thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, ăn quả nhớ kẻ trồng cây của dân tộc ta. Trong ngày này, cấp uỷ, chính quyền các cấp, các đoàn thể, Hội cựu chiến binh tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi, thăm và tặng quà cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, dâng hương tri ân tại các Nghĩa trang liệt sĩ…
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. Với ý chí kiên cường, bất khuất “Thà hy sinh chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã một lòng anh dũng chiến đấu chống lại quân xâm lược. Trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống hoặc đổ máu trên các chiến trường.
Theo lời kêu gọi của Đảng, của Chính phủ và Bác Hồ, kế thừa truyền thống “nhân ái, thủy chung” của dân tộc, nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu của mình cho các chiến sĩ và đồng bào đã vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh. Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ bị nạn” ra đời ở Thuận Hóa (Huế), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác ... Sau đó ít lâu được đổi thành “Hội giúp binh sĩ bị thương”. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.
Chiều ngày 28 tháng 5 năm 1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, “Tổng Hội” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng để kêu gọi đồng bào gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sĩ bị thương. Để giúp chiến sĩ trong mùa đông giá rét, cuộc vận động “Mùa Đông binh sĩ” được tổ chức trong cả nước, mở đầu bằng buổi lễ xung phong “Mùa đông binh sĩ” do Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam tổ chức chiều ngày 17 tháng 11 năm 1946 tại Hà Nội. Hồ Chủ tịch đã đến dự buổi lễ và tặng chiếc áo mà Người đang mặc (chiếc áo sau này bán đấu giá được 3.500 đồng).
Ngày 16 tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sỹ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.
Để chủ đạo công tác này trong cả nước, ngày 26 tháng 2 năm 1947, Phòng Thương binh (thuộc Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam) được thành lập và đầu tháng 7 năm 1947 Bác Hồ đã đồng ý cho thành lập Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”.
Tháng 6/1947, đại biểu Tổng bộ Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ - Thái Nguyên. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam, các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là “Ngày Thương binh toàn quốc”.
“Ngày Thương binh toàn quốc” đầu tiên cũng được tổ chức ở một số Tỉnh phía Nam, đặc biệt là Thành phố Sài Gòn. Tuy đang bị địch tạm chiếm và đàn áp, khủng bố rất gắt gao nhưng đồng bào đã tổ chức theo cách riêng của mình: Đến ngày đó các cửa hàng “đằng mình” đều đóng cửa nửa ngày và cũng trong thời gian đó không ai ra đường để biểu thị thái độ bất hợp tác với địch.
Từ đây, hàng năm đến ngày 27 tháng 7, Bác Hồ đều gửi thư thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ. Tháng 7 năm 1955, “Ngày Thương binh toàn quốc” được đổi thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ”. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TƯ ngày 8 tháng 7 năm 1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hàng năm chính thức trở thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” của cả nước.
Trải qua hơn nửa thế kỷ, với các tên gọi “Ngày Thương binh toàn quốc”, “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” và được tổ chức trong những hoàn cảnh khác nhau (chiến tranh, hòa bình ở nửa đất nước, đất nước thống nhất, cả nước tiến hành công cuộc đổi mới), nhưng đúng như mục tiêu đề ra ban đầu, mỗi năm đến “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” ngày 27 tháng 7, trên đất nước ta lại dấy lên nhiều việc làm thiết thực, đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, gia đình người có công với cách mạng, thể hiện truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những người đã vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì tự do và cuộc sống yên bình của nhân dân mà hy sinh, cống hiến.
Phát huy truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc; trong thời gian qua, Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện Lục quân luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức tốt các hoạt động Đền ơn đáp nghĩa, góp phần chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần đối với các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng. Bên cạnh thực hiện nhiệm vụ trung tâm là giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học, Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”; theo đó, các cơ quan, đơn vị đã xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch thực hiện hết sức cụ thể, thiết thực, phù hợp với thực tế của đơn vị và địa phương, từ đó huy động được mọi nguồn lực cùng tham gia; phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng và bàn giao nhà tình nghĩa, nhà đồng đội, tặng các đối tượng chính sách có hoàn cảnh khó khăn; thăm hỏi, tặng quà các đối tượng chính sách là thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, lão thành cách mạng trong Học viện và trên địa bàn nhân dịp lễ tết; làm tốt trợ cấp khó khăn đột xuất; tổ chức khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho các đối tượng chính sách; thăm viếng, dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ; tu sửa, tôn tạo các nghĩa trang, công trình ghi công liệt sĩ tại địa phương…
Thông qua việc thực hiện những hoạt động ý nghĩa đã tạo sự lan toả mạnh mẽ, không chỉ cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần đối với các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng; mà còn tăng cường mối quan hệ đoàn kết giữa Học viện Lục quân với cấp uỷ, chính quyền và Nhân dân trên địa bàn, củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.