• :
  • :
Học viện Lục quân: "Kiên định vững vàng - Đoàn kết nhất trí - Chủ động sáng tạo - Khắc phục khó khăn - Hoàn thành nhiệm vụ"
Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 1.393
Tháng 06 : 35.839
Tháng trước : 48.223
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Kỷ niệm 114 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước: từ “tìm đường” đến “dẫn đường” di sản Hồ Chí Minh soi sáng kỷ nguyên hội nhập

Ngày 05 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã khởi hành chuyến đi lịch sử, mang theo hoài bão giải phóng dân tộc. Ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước đã hun đúc nên Hồ Chí Minh – một vĩ nhân với con đường cách mạng độc đáo cùng hệ tư tưởng, phương pháp và đạo đức cách mạng vĩ đại. Ngày nay, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng vào thế giới, di sản vô giá ấy không chỉ là niềm tự hào về quá khứ mà còn là kim chỉ nam nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, giúp dân tộc ta tự tin chuyển mình từ vị thế "tìm đường" sang vai trò "dẫn đường" trên trường quốc tế, mở ra kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ.

 

114 năm Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước 5/6/1911 - 5/6/2025

Hành trình bôn ba của Bác không chỉ là chuyến đi cá nhân, mà là một cuộc tìm tòi, kiến tạo nên di sản vĩ đại. Đó chính là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp cách mạng và con đường phát triển của Việt Nam sau này. Di sản ấy được đúc kết từ những quyết định sáng suốt và tư duy vượt thời gian của Người như:

Việc lựa chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều làm nên sự vĩ đại của Bác, bởi đây không phải là sự sao chép máy móc, mà là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh riêng của Việt Nam. Con đường này đã đưa dân tộc ta đến những chiến thắng vĩ đại: Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giành lại độc lập, đến thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chỉ trong vòng 30 năm (1945-1975), từ một đất nước bị xâm lược và chia cắt, Việt Nam đã trở thành quốc gia độc lập, thống nhất.

Trong suốt hành trình “tìm đường”, Bác Hồ luôn suy nghĩ một cách độc lập, tự chủ và rất sáng tạo. Người không bao giờ giáo điều hay cứng nhắc. Bác luôn tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ khắp nơi trên thế giới, đúng như câu nói “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Nhưng dù học hỏi ở đâu, Người cũng luôn xem xét kỹ lưỡng và áp dụng sao cho phù hợp nhất với thực tiễn Việt Nam. Nhờ vậy, Bác đã thống nhất các tổ chức Cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất để đoàn kết toàn dân, và tạo nên lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh.

Bác Hồ còn để lại một phong cách làm việc rất khoa học, thực tế và luôn gần gũi với nhân dân nói đi đôi với làm. Người thường xuyên đi sâu, đi sát thực tế, lắng nghe ý kiến của nhân dân, để đưa ra những quyết sách đúng đắn. Bác luôn làm gương trong mọi việc, từ lối sống giản dị đến việc đặt lợi ích chung lên trên hết, đã tạo nên một niềm tin vững chắc và sự gắn bó sâu sắc giữa Bác, Đảng và nhân dân.

Cuộc đời vĩ đại của Bác để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời. Đó là sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư – những đức tính mà Bác luôn rèn luyện và yêu cầu cán bộ phải học tập. Bác luôn dành tình yêu thương vô bờ bến cho nhân dân, đặt lợi ích của Tổ quốc và hạnh phúc của mọi người lên hàng đầu. Cuộc đời Bác là sự hy sinh trọn vẹn vì độc lập, tự do của đất nước và hạnh phúc ấm no của nhân dân, trở thành biểu tượng cao đẹp nhất của tinh thần yêu nước và tấm lòng vì dân.

Nếu hành trình “tìm đường” của Bác Hồ là nền tảng cho sự nghiệp cách mạng, thì di sản Hồ Chí Minh ngày nay chính là ngọn đuốc soi đường, là sức mạnh nội sinh giúp Việt Nam tự tin từ tâm thế “tìm đường” vươn lên vai trò “dẫn đường” trên trường quốc tế. Giữa bối cảnh hội nhập đầy cơ hội và thách thức, những bài học từ Người trở nên quý giá hơn bao giờ hết.

Trước hết, di sản của Bác định hình rõ ràng chiến lược phát triển đất nước. Tư tưởng độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Người được thể hiện rõ nét. Kế thừa tinh thần “muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”, Việt Nam ngày nay chủ động, tích cực mở cửa và hội nhập sâu rộng, từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến các diễn đàn đa phương. Tuy nhiên, chúng ta vẫn kiên định giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách, không để bất kỳ thế lực nào chi phối, và luôn đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết.

Hơn thế nữa, nguyên tắc lấy dân làm gốc vẫn là kim chỉ nam xuyên suốt. Mọi chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội trong quá trình hội nhập đều phải hướng đến mục tiêu cao nhất là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo công bằng và an sinh xã hội. Đây là sự tiếp nối tư tưởng "việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm", khẳng định rằng mục tiêu cuối cùng của phát triển không phải là những con số tăng trưởng khô khan, mà là hạnh phúc của con người.

Đặc biệt quan trọng, lời dạy của Bác về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là then chốt vẫn còn nguyên giá trị. Trong bối cảnh hội nhập, Đảng Cộng sản Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức như tham nhũng, suy thoái tư tưởng, hay nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Việc kiên định học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là lá chắn vững chắc, giúp Đảng đủ năng lực lãnh đạo đất nước vượt qua mọi sóng gió, tiếp tục sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người.

Di sản của Bác không chỉ là định hướng, mà còn là phương pháp để chúng ta giải quyết những vấn đề phức tạp của thời đại. Chẳng hạn, trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, tư duy biện chứng của Người giúp chúng ta tìm ra sự hài hòa lợi ích, không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng nóng.

Trước những thách thức an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu (như đại dịch COVID-19 vừa qua), hay an ninh mạng, đòi hỏi sự sáng tạo, linh hoạt. Tư tưởng của Người về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là bài học quý giá để chúng ta huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân cùng đối mặt và vượt qua.

Đặc biệt, việc xây dựng nền ngoại giao “cây tre Việt Nam” là minh chứng rõ nét cho sự vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Mềm dẻo, khôn khéo trong ứng xử nhưng luôn kiên định về nguyên tắc độc lập, tự chủ – đó chính là phong cách ngoại giao mà Bác đã dày công vun đắp.

Trong môi trường đa văn hóa, việc giữ gìn bản sắc dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là vô cùng quan trọng, đúng như cách Bác đã làm khi tiếp xúc với nhiều nền văn minh khác nhau. Đó là cách để Việt Nam hội nhập nhưng không hòa tan.

Đạo đức Hồ Chí Minh cũng là liều vắc-xin hữu hiệu để chống lại những mặt trái nảy sinh trong quá trình hội nhập như chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Việc phát huy các giá trị đạo đức của Người giúp chúng ta xây dựng con người Việt Nam yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm – những phẩm chất cốt lõi để tự tin bước vào “kỷ nguyên vươn mình” ra thế giới.

Dù bối cảnh thế giới và đất nước có nhiều thay đổi đến đâu, những nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẫn mãi là nền tảng vững chắc, là nguồn sức mạnh nội sinh không bao giờ cạn để Việt Nam tự tin hội nhập và phát triển bền vững. Minh chứng rõ ràng nhất là những thành tựu vượt bậc của công cuộc Đổi mới và hội nhập trong gần 40 năm qua: Từ một quốc gia thiếu đói, Việt Nam đã trở thành nền kinh tế năng động với GDP tăng trưởng ấn tượng, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, vị thế trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao với vai trò là thành viên tích cực của ASEAN, APEC, WTO, và nhiều tổ chức quốc tế khác. Tất cả những thành quả ấy đều bắt nguồn từ sự vận dụng sáng tạo và hiệu quả di sản vĩ đại của Người.

Di sản Hồ Chí Minh, từ hành trình “tìm đường” gian khổ đến vai trò “dẫn đường” trong kỷ nguyên hội nhập, là mạch nguồn vô tận của sức mạnh dân tộc. Đó không chỉ là kho tàng lý luận, mà còn là bản hùng ca về ý chí tự lực, khát vọng độc lập, tự do. Thế hệ hôm nay có trách nhiệm lớn lao là không ngừng học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo di sản ấy. Chỉ khi thực sự thấu hiểu và làm theo lời Bác, chúng ta mới đủ sức vượt qua mọi thử thách. Khơi dậy niềm tự hào, phát huy ý chí tự cường, xây dựng một Việt Nam hùng cường, sánh vai các cường quốc năm châu như sinh thời Bác hằng mong ước. Di sản của Người mãi là ngọn hải đăng vĩnh cửu, dẫn lối cho dân tộc ta vững bước tiến vào “kỷ nguyên vươn mình của đất nước”./.

TVT


Tác giả: CTD. Trần Văn Tâm
Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thông báo mới
Thư viện ảnh
Thăm dò ý kiến
GIAO DIỆN

Bạn thấy giao diện của trang website Học viện Lục quân như thế nào?