Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Học tập và làm theo TT, ĐĐ, PC HCM

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Phòng, chống diễn biến hòa bình

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 2.381
Tháng 04 : 47.912
Tháng trước : 72.315
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Các hiệp ước quốc tế trong lĩnh vực cấm phổ biến vũ khí hạt nhân hiện nay

Được nghiên cứu và phát triển từ những năm 1940, vũ khí hạt nhân được coi là biểu tượng phi thường của con người trong việc sử dụng sức mạnh của tự nhiên để hủy diệt con người. Vũ khí hạt nhân đã trở thành một trong những vấn đề trọng tâm của các căng thẳng quân sự, chính trị cũng như trong các vấn đề xã hội quốc tế. Để bảo đảm trong đảm bảo an ninh quốc tế, kiểm soát một cách hiệu quả vũ khí hạt nhân, các Hiệp ước quốc tế chống việc phổ biến hạt nhân đã được ký kết. Tuy nhiên, tình hình hiện nay rất mâu thuẫn khi mà một mặt người ta có những bước đi mạnh mẽ nhằm ngăn cấm việc phổ biến và sử dụng vũ khí hạt nhân, mặt khác các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực này đang bị vi phạm. Điều quan trọng là làm sao để cho trong điều kiện tình hình quân sự-chính trị ở nhiều nơi trên thế giới diễn ra với tính chất xung đột không ngừng gia tăng, các quốc gia sở hữu, cũng như không sở hữu hạt nhân phải thực hiện đầy đủ những cam kết của mình theo hiệp ước và không để xảy ra việc sử dụng vũ khí hạt nhân, cũng như để loại vũ khí này rơi vào tay các tổ chức khủng bố.

Những công cụ chủ chốt nghiêm cấm phổ biến vũ khí hạt nhân là các hiệp ước trong lĩnh vực giảm thiểu nguy cơ hạt nhân, cấm các vụ thử hạt nhân, hạn chế và giải trừ quân bị, các hiệp ước về những khu vực không có vũ khí hạt nhân, cũng như hàng loạt sáng kiến khác về đấu tranh với: việc phổ biến hạt nhân; luân chuyển bất hợp pháp vật liệu phóng xạ; hành vi khủng bố hạt nhân,... Các hiệp ước quốc tế hiện nay có vai trò then chốt về các vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân là: Hiệp ước về cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (Nuclear Non-Proliferation Treaty, viết tắt là NPT hoặc NNPT), Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện (Comprehensive Nuclear-Test-Ban Treaty, viết tắt là CTBT) và Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân (Treaty on the Prohibition of Nuclear Weapons, viết tắt là TPNW).

Hiệp ước về cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT)

Hiệp ước NPT là cơ sở của hệ thống quốc tế cấm phổ biến vũ khí hạt nhân. Văn kiện này được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 12/6/1968 và được công khai ký tại Moscow, Washington và London ngày 01/7/1968, có hiệu lực vô thời hạn từ 05/3/1970. Theo văn kiện này, các cường quốc hạt nhân được xác định là những nước sản xuất và thử nghiệm vũ khí hạt nhân hoặc thiết bị nổ chứa hạt nhân khác trước ngày 01/7/1967, gồm: Liên Xô (Nga), Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc. Tính đến tháng 6/2018, đã có 191 quốc gia tham gia là thành viên của Hiệp ước NPT. Có 2 nước, tuy sở hữu vũ khí hạt nhân nhưng lại không được đứng vào hàng ngũ cường quốc hạt nhân (tức là từng sản xuất, thử nghiệm vũ khí hạt nhân hay thiết bị nổ chứa hạt nhân khác sau ngày 01/01/1967) là Ấn Độ và Pakistan. Hai nước này không phải là thành viên tham gia Hiệp ước NPT. Israel vẫn tiếp tục đứng ngoài Hiệp ước, thái độ của nước này là không khẳng định, cũng như không phủ định việc họ sở hữu vũ khí hạt nhân, kiên quyết theo đuổi mục tiêu hình thành khu vực không có vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Trung Đông. Năm 2003, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tuyên bố rút khỏi Hiệp ước NPT. Vào các năm 2006, 2009, 2013, 2016 và 2017, Triều Tiên đã tiến hành các vụ thử thiết bị nổ chứa hạt nhân. Là một quốc gia thành viên tham gia Hiệp ước NPT, Iran cũng đã có những hoạt động hạt nhân đáng ngờ trong giai đoạn từ giữa thập niên 80 thế kỷ trước đến khi nước này cùng với nhóm 6 nước (Nga, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc và Đức) ký kết Kế hoạch hành động chung toàn diện vãn hồi tình hình xung quanh chương trình hạt nhân của Iran.

Nội dung văn kiện Hiệp ước NPT bao gồm những cam kết của các cường quốc hạt nhân: (1) Điều 1 của Hiệp ước: “Không chuyển giao cho bất kỳ ai vũ khí hạt nhân hoặc quyền giám sát vũ khí hạt nhân, dù là trực tiếp hay gián tiếp; không giúp đỡ các nước phi hạt nhân trong việc sản xuất hay mua sắm vũ khí hạt nhân, không thúc đẩy, khích lệ các nước phi hạt nhân làm điều đó, cũng như giám sát vũ khí hạt nhân”. (2) Khẳng định quyền của mọi quốc gia thành viên Hiệp ước được phát triển các nghiên cứu, sản xuất và sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, tham gia hoạt động trao đổi quốc tế rộng rãi thiết bị, vật tư và thông tin khoa học-kỹ thuật về việc sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hòa bình. (3) Hiệp ước NPT cũng đề cập việc các quốc gia có trình độ phát triển cao trong lĩnh vực này sẽ hợp tác với những nước phi hạt nhân để hỗ trợ phát triển năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình có sự tính toán cần thiết nhu cầu trong khu vực. (4) Việc giám sát thực hiện các cam kết trong khuôn khổ Hiệp ước NPT giao cho Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).

Trong khuôn khổ Hiệp ước NPT, báo cáo tổng kết và đánh giá hoạt động của các bên được lập trong quá trình tổ chức những Hội nghị các nước thành viên để xem xét hiệu lực của Hiệp ước. Những hội nghị này được tiến hành 5 năm một lần. Trước mỗi hội nghị đều có 3 phiên họp tiểu ban chuyên ngành do Ủy ban trù bị tổ chức hàng năm, cũng như hàng loạt cuộc tham vấn và cuộc gặp làm việc song phương và đa phương. Hội nghị gần đây nhất được tổ chức vào năm 2015 với những tranh luận gay gắt về nhiều vấn đề và kết thúc mà không thông qua được văn kiện cuối cùng. Hội nghị cho thấy có những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các nước thành viên Hiệp ước. Căng thẳng nhất là khi thảo luận những vấn đề trên hướng giải trừ quân bị, theo đó “nhóm 5 nước” phải đối mặt với số đông các quốc gia phi hạt nhân. Các cuộc khẩu chiến mang sắc thái mới: Những diễn giải mang tính chất nhân đạo được nêu ra với tư cách là lý lẽ chính khêu gợi giải trừ hạt nhân, còn vấn đề cấm sở hữu vũ khí hạt nhân được xem như “cam kết tinh thần” của tất cả các quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Những nước tích cực nhất ủng hộ giải trừ hạt nhân (Mexico, Brasil, Ai cập, Nam Phi, Irland, New Zealand, Áo,…) chỉ ra một số điểm “còn bỏ trống” trong luật pháp quốc tế về những gì liên quan đến vũ khí hạt nhân. Để khép lại những sơ hở này, họ đề xuất soạn thảo một hiệp ước hay công ước, trong đó tuyên bố đặt vũ khí hạt nhân ra ngoài vòng pháp luật; như vậy, các điều khoản ghi rõ trong Hiệp ước NPT đã hoàn toàn bị phớt lờ. Khái niệm kiềm chế hạt nhân cũng bị chỉ trích gay gắt và bị coi là lực cản trên con đường loại bỏ những nguy cơ liên quan đến vũ khí hạt nhân ra khỏi đời sống nhân loại. Trong hội nghị, chiếm vị trí đặc biệt là vấn đề thiết lập ở Trung Đông một khu vực không có vũ khí hạt nhân và vũ khí hủy diệt hàng loạt. Quan điểm của các nước như Mỹ, Anh, Canada không cho phép người ta đạt được những điểm chung cần thiết để tìm ra giải pháp cho vấn đề này. Nhìn chung hội nghị này, đặc biệt là giai đoạn cuối, diễn ra trong không khí mâu thuẫn gay gắt của nhóm các nước “phản đối hạt nhân” một cách cực đoan và nhóm “5 cường quốc” hạt nhân.

Hiện nay, có sự leo thang căng thẳng mâu thuẫn giữa các nước sở hữu vũ khí hạt nhân và những nước không sở hữu loại vũ khí này xung quanh vấn đề kiểm soát vũ khí và giải trừ quân bị. Được sự ủng hộ rộng rãi trên trường quốc tế, các quốc gia phản đối vũ khí hạt nhân (cực đoan) tiếp tục đưa ra những sáng kiến khác nhau nhằm phủ định tính hợp pháp của vũ khí hạt nhân, với lý lẽ cho rằng loại vũ khí này không phù hợp với các chuẩn mực nhân đạo. Nếu “5 cường quốc hạt nhân” coi việc cấm phổ biến vũ khí hạt nhân là định đề cơ bản của Hiệp ước NPT thì những nước không sở hữu loại vũ khí này lại nhìn nhận việc giải trừ hạt nhân toàn bộ (đạt được cái gọi là - thế giới không hạt nhân) là phương hướng ưu tiên. Những mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt hơn do các nước phản đối hạt nhân một cách cực đoan đẩy mạnh đường hướng nhằm hình thành trong cộng đồng quốc tế một thông lệ coi việc bất kỳ quốc gia nào sở hữu vũ khí hạt nhân là tội ác chống lại loài người và ký kết một cách vô điều kiện Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân (Treaty on the Prohibition of Nuclear Weapons - TPNW).

Theo ý kiến của nhiều nước thành viên Hiệp ước NPT, những hoạt động của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong lĩnh vực tên lửa-hạt nhân đang đe dọa nghiêm trọng chế độ cấm phổ biến vũ khí hạt nhân của cộng đồng quốc tế. Cụ thể hơn, người ta đặc biệt nhấn mạnh rằng, trong điều kiện nước này tiếp tục những vụ thử hạt nhân, nhiệm vụ ngăn cấm toàn diện những vụ thử đó ngày càng mang tính cấp bách hơn. Công bằng mà nói, những bước đi gần đây của ban lãnh đạo Triều Tiên trên hướng này (các cuộc gặp cấp cao giữa Triều Tiên với Hàn Quốc và Mỹ, tuyên bố phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên) có thể là điểm khởi đầu quá trình tìm kiếm giải pháp hòa bình cho vấn đề hiện nay. Việc các cường quốc hạt nhân phải đưa ra một sự bảo đảm không sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại những nước không sở hữu vũ khí hạt nhân, đây vẫn là nội dung mối quan hệ giữa các quốc gia trong khuôn khổ Hiệp ước NPT (người ta gọi đó là sự bảo đảm an ninh một cách bất lợi). Các cường quốc hạt nhân đơn phương tuyên bố đảm bảo một cách “hạn chế” cho những nước còn lại là chưa đủ. Các nước không sở hữu vũ khí hạt nhân cho rằng, trước hết cần ký kết ngay một thỏa thuận mang tính tổng hợp cho vấn đề này mà không cần phải có điều kiện sơ bộ.

Hàng loạt quốc gia (Mỹ, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Bỉ,…) đang quan tâm đến vấn đề rút khỏi Hiệp ước NPT. Theo đó người ta khẳng định rằng, theo điều khoản của Hiệp ước, các nước hoàn toàn có quyền tự quyết rút khỏi Hiệp ước. Tuy nhiên, cần phải đảm bảo để cho bước đi như vậy không trở thành cách thức lẩn tránh trách nhiệm về những vi phạm xảy ra trong thời gian tham gia Hiệp ước. Các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân đang bị qui kết có âm mưu thay đổi những quy định hiện nay về chế độ cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, chuyển dịch trọng tâm sang những biện pháp hạn chế và kiểm soát khác nhau, bằng mọi cách ngụy trang các khía cạnh phân biệt đối xử của Hiệp ước. Các nước sở hữu vũ khí hạt nhân cũng bị phê phán là từ chối những cam kết cụ thể về giải trừ quân bị và không muốn hỗ trợ cần thiết cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hòa bình. Các nước thuộc Phong trào không liên kết cho rằng, hoạt động của những cường quốc hạt nhân trong việc hiện đại hóa kho vũ khí đang làm cho tình hình trở nên trầm trọng hơn. Theo ý kiến của các nước, chính sách như vậy dẫn đến việc Hiệp ước NPT dần dần bị hủy hoại, thúc đẩy một số quốc gia đi đến quyết định sở hữu vũ khí hạt nhân, loại vũ khí được xem như công cụ đáng tin cậy đảm bảo an ninh quốc gia (theo gương Triều Tiên). Góp phần tạo ra thực tế như vậy là việc Ấn Độ và Pakistan sở hữu vũ khí hạt nhân và có thể là cả Israel, những nước này không tham gia Hiệp ước NPT, họ có lợi thế hơn so với những nước là thành viên Hiệp ước.

Ngoài ra, trực tiếp chống lại Điều 1 của Hiệp ước NPT (“các quốc gia hạt nhân sẽ tuyệt đối không giúp đỡ, thúc đẩy và khích lệ các nước phi hạt nhân tiến tới mua sắm hay kiểm soát vũ khí hạt nhân”) là việc thu hút lực lượng không quân của các nước phi hạt nhân thuộc khối quân sự Bắc Đại Tây dương (NATO) tham gia thục luyện hoạt động sử dụng đạn hạt nhân (cái gọi là những sứ mệnh hạt nhân chung của NATO), kể cả những bộ phận lập kế hoạch hạt nhân và thục luyện kỹ năng sử dụng vũ khí hạt nhân với sự tham gia của lực lượng máy bay (phương tiện mang), kíp bay, cơ sở hạ tầng sân bay và những bộ phận đảm bảo phục vụ trên mặt đất của các nước. Đối với những nước phi hạt nhân là thành viên NATO, hoạt động đó còn là sự vi phạm Điều 2 Hiệp ước NPT, bởi lẽ ở đây không loại trừ việc giám sát gián tiếp vũ khí hạt nhân (mà nhiều khả năng là cả giám sát trực tiếp, mặc dù họ phủ nhận vấn đề này). Gần đây ngày càng có nhiều nước, trước hết ở Châu Á, Trung Đông và Mỹ la-tinh (Indonesia, Malaysia, Myanmar, UAE, Venezuela,…) quan tâm phát triển năng lượng hạt nhân. Điều đó gây thêm những rắc rối trong việc giải quyết nhiệm vụ chống phổ biến vũ khí hạt nhân. Việc sử dụng những công nghệ hạt nhân cũng được các nước dành sự quan tâm đáng kể. Bức tranh tổng thể về lĩnh vực được đề cập trong bài viết này, càng phức tạp hơn do những nước đang phát triển vươn ra thị trường thế giới với tư cách là nhà cung ứng “cấp hai”. Họ có khả năng chuyển giao những công nghệ đặc biệt nhạy cảm cho các nước thứ ba. Trong vấn đề này, vẫn hiển hiện nguy cơ những công nghệ lưỡng dụng, có thể được sử dụng để chế tạo vũ khí hủy diệt hàng loạt, rơi vào tay các chủ thể phi nhà nước.

Tóm lại, có hàng loạt yếu tố tiêu cực đang ảnh hưởng đến việc thực thi Hiệp ước NPT, còn hoạt động của một số nước, trên thực tế, lại đang phá vỡ nền tảng của Hiệp ước. Con đường duy nhất đúng đắn để giải quyết vấn đề này là tập hợp đoàn kết nỗ lực của tất cả các nước và tìm ra những điểm chung tương đồng cho phép đạt được mục tiêu đề ra trong Hiệp ước là không phổ biến vũ khí hạt nhân.

Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện (Comprehensive Nuclear-Test-Ban Treaty - CTBT)

Hiệp ước CTBT được công khai ký kết ngày 24/9/1996 tại thành phố New York và có hiệu lực vô thời hạn. Theo Hiệp ước CTBT, từng quốc gia thành viên sẽ cam kết: (1) Không tiến hành bất kỳ vụ nổ thử nghiệm vũ khí hạt nhân cũng như vụ nổ hạt nhân nào khác, nghiêm cấm và ngăn chặn bất kỳ vụ nổ hạt nhân nào, ở bất kỳ nơi đâu nằm trong quyền tài phán của mình, hay dưới sự kiểm soát của mình. (2) Từ nay trở đi có thái độ kiềm chế, không thúc đẩy, khuyến khích hay tham gia tiến hành bất kỳ vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân cũng như vụ nổ hạt nhân nào khác.

Hiệp ước CTBT bắt đầu có hiệu lực sau 180 ngày kể từ khi bàn giao đưa vào lưu trữ thư phê chuẩn từ 44 quốc gia sở hữu lò phản ứng năng lượng hạt nhân hay lò phản ứng phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu khoa học (danh sách các nước được nêu tại phụ lục số 2 của văn kiện Hiệp ước). Tính đến thời điểm tháng 6/2018, đã có 166 quốc gia phê chuẩn Hiệp ước CTBT. Những nước tham gia ký nhưng chưa phê chuẩn gồm: Gambia, Ai cập, Zimbabwe, Israel, Iran, Yemen, Trung Quốc, Quần đảo Comoro, Nepal, Papua New Guinea, Cộng hòa dân chủ São Tomé and Príncipe, Quần đảo Solomon, Mỹ, Thái lan, Timor, Shri-Lanka, Cộng hòa Ghi-nê Xích Đạo.

Để đạt được đối tượng và mục tiêu của Hiệp ước cũng như triển khai thực thi các điều khoản của nó, các quốc gia tham gia Hiệp ước đã thành lập Tổ chức về Hiệp ước CTBT với đại bản doanh đặt tại thành phố Viên (Áo) với thành viên là tất cả các nước tham gia Hiệp ước. Cơ quan cao nhất của Hiệp ước CTBT là Hội nghị các quốc gia thành viên, được triệu tập hàng năm với thể thức các phiên họp tiểu ban thường kỳ và theo quyết định của Hội nghị, cũng như theo đề nghị của bất kỳ quốc gia thành viên nào, được đa số thành viên khác ủng hộ, sẽ tiến hành những phiên họp tiểu ban đặc biệt của Hội nghị.

Trước khi Hiệp ước có hiệu lực, việc chuẩn bị về mặt kỹ thuật, phương pháp luận khoa học và tổ chức để thực thi Hiệp ước, giao cho Ủy ban trù bị của Tổ chức Hiệp ước CTBT đảm nhiệm, các phiên họp toàn thể của Ủy ban được tiến hành 2 lần trong 1 năm. Năm 1997 thành lập Ban Thư ký kỹ thuật lâm thời thuộc Ủy ban trù bị do người Thư ký thường trực đứng đầu. Để theo dõi việc chấp hành Hiệp ước đã thành lập những cơ chế thanh sát như: Hệ thống quan trắc quốc tế; tư vấn và giải thích; thanh tra tại chỗ và các biện pháp củng cố lòng tin. Hiệp ước đề cập việc Hệ thống quan trắc quốc tế sẽ bao gồm 321 trạm quan trắc, có nhiệm vụ thu thập số liệu địa chấn, phóng xạ, sóng hạ âm (âm thanh tần số thấp) và thủy âm, cũng như 16 phòng nghiên cứu phóng xạ (tính tổng cộng có 337 công trình). Thông tin từ những địa điểm này sẽ được truyền về Trung tâm số liệu quốc tế đặt ở thành phố Viên thông qua hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu, liên kết với 6 vệ tinh địa tĩnh và 4 trạm thông tin mặt đất. Để đảm bảo tính chân thực của thông tin và loại trừ khả năng những thông tin ấy bị làm sai lệch một cách bất hợp pháp, sẽ sử dụng hệ thống chữ ký số và khóa mã. Thông tin gửi về Trung tâm sẽ được xử lý bằng các chương trình máy tính và được đội ngũ chuyên gia tiến hành phân tích. Kết quả công tác này được thể hiện trong những báo cáo và công báo đặc biệt gửi cho tất cả các quốc gia thành viên Hiệp ước.

Nhìn chung, theo đánh giá của giới chuyên gia, việc triển khai toàn bộ Hệ thống quan trắc quốc tế sẽ đảm bảo được khả năng ghi nhận các vụ nổ hạt nhân trên không và trên mặt đất có công suất từ 1 kiloton trở lên, còn đối với những vụ nổ ngầm dưới lòng đất và dưới nước, chỉ số này được đánh giá tuần tự là 0,1 và 0,01 kiloton. Tuy vậy, mặc dù Hiệp ước CTBT có mức độ mở rộng chức năng rất cao, triển vọng trao cho nó một hiệu lực vẫn chưa được xác định. Một loạt quốc gia mà sự phê chuẩn của họ là rất cần thiết để khởi động Hiệp ước, vì những nguyên nhân nào đó, vẫn chưa chịu phê chuẩn (Ai cập, Israel, Iran, Trung Quốc, Mỹ) hoặc là chưa chịu ký (Ấn Độ, Triều Tiên, Pakistan). Trở ngại chính khiến cho Hiệp ước CTBT chưa thể có hiệu lực là quan điểm của Mỹ. Như thường lệ, phần lớn thành viên cơ quan lập pháp tối cao của Mỹ có suy nghĩ cho rằng dựa vào những điều khoản nêu ra sẽ rất khó kiểm tra việc tuân thủ Hiệp ước, cũng như sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì mức độ tin cậy cần thiết các lượng nổ hạt nhân hiện nay và chế tạo đạn dược mới. Theo phát biểu của các vị ở trong Quốc hội Mỹ, trong điều kiện có sự hiện diện những quốc gia hạt nhân và quốc gia có ý định sở hữu hạt nhân, sẵn sàng vi phạm chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân, về mặt pháp lý việc ngăn cấm các vụ thử hạt nhân phải được nhìn nhận là mối đe dọa an ninh quốc gia của Mỹ. Đường hướng như vậy và chiến lược hạt nhân đã được thông qua không phù hợp với những tuyên bố của Mỹ theo đuổi các mục tiêu củng cố chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân. Hơn nữa, trong vấn đề này một loạt quốc gia khác có vị thế then chốt đối với Hiệp ước có thể sẽ định hướng theo gương Mỹ.

Khẳng định sự tuân thủ nghiêm ngặt của mình về ngừng các vụ thử hạt nhân, Trung Quốc chính thức tuyên bố ủng hộ việc sớm làm cho Hiệp ước có hiệu lực. Tuy vậy, phần nhiều quan điểm của Trung Quốc về vấn đề này lại được định hướng theo Mỹ, có tính đến hoạt động của Ấn Độ trong lĩnh vực vũ khí hạt nhân. Về phần mình, Ấn Độ có thái độ thận trọng đối với việc tham gia Hiệp ước CTBT. Đối với New Delhi, yếu tố gây quan ngại chính là tiềm lực quân sự đang mở rộng của Trung Quốc và hoạt động của Pakistan trong lĩnh vực vũ khí hạt nhân. Khi bàn đến vấn đề này, chiếm ưu thế là ý kiến cho rằng, sở dĩ những quốc gia chính thức đã được thừa nhận sở hữu VŨ KHÍ HẠT NHÂN, họ tích cực tham gia Hiệp ước CTBT chỉ là bởi vì các nước đó tin tưởng vào khả năng phát triển kho vũ khí của mình mà không cần tiến hành thử nghiệm tự nhiên. Vì vậy trong tương lai gần, chính phủ Ấn Độ không chủ trương có những bước đi có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến chương trình hạt nhân của đất nước. Khác với Ấn Độ, Pakistan công khai thể hiện sự tin tưởng đối với Hiệp ước CTBT. Với tư cách là quan sát viên, Islamabad tham gia công việc của các cơ quan chủ chốt thuộc Hiệp ước và những hoạt động do Ban thư ký kỹ thuật lâm thời tổ chức. Tuy vậy, trên thực tế quan điểm của Pakistan là chỉ có thể ký Hiệp ước với điều kiện Ấn Độ cũng phải có hành động tương tự và Pakistan phải được công nhận là cường quốc hạt nhân. Trong tương lai gần, chưa thấy dấu hiệu nào về sự thay đổi cách tiếp cận Hiệp ước CTBT của các nước như Ai cập, Israel và Iran. Các nước này, do tình hình phức tạp tại Trung Đông liên quan đến những vấn đề an ninh quốc gia, họ hành động một cách dè dặt, canh trừng lẫn nhau.

Đối với Hiệp ước CTBT, điều lo lắng lớn nhất của cộng đồng quốc tế là quan điểm của Triều Tiên. Vào tháng 9/2017, nước này lại một lần nữa tiến hành vụ nổ hạt nhân, sau khi công khai thể hiện việc sẵn sàng tiếp tục các hoạt động trong khuôn khổ chương trình hạt nhân quốc gia. Như vậy, có thể còn tiếp diễn tình thế không xác định được thời hạn bắt đầu hiệu lực của Hiệp ước. Người ta cũng không đưa ra phỏng đoán một sự đột phá nào đó làm thay đổi vị thế của Hiệp ước CTBT trong tương lai gần. Trong vấn đề này, các quan điểm của Mỹ và Trung Quốc được xem như có sức nặng nhất định nào đó.

Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân (Treaty on the Prohibition of Nuclear Weapons - TPNW)

Hiệp ước TPNW được Hội nghị của Liên Hợp quốc thông qua ngày 07/7/2017 tại thành phố New York với sự tham dự của 124 quốc gia, được sự tán thành của đại biểu 122 quốc gia. Ngày 20/9/2017, Hiệp ước TPNW được ký kết và có hiệu lực sau 90 ngày kể từ khi Tổng thư ký Liên Hợp quốc nhận được thư phê chuẩn của quốc gia thứ 50 tham gia ký kết văn kiện. Hiệp ước TPNW mang tính chất vô thời hạn. Hiệp ước xác định cấm toàn bộ việc sở hữu vũ khí hạt nhân và cấm mọi hoạt động liên quan đến loại vũ khí này như: Thử nghiệm, tàng trữ, chuyển giao, bố trí, lắp đặt hay triển khai phương tiện sát thương hạt nhân.

Những nước đề xuất sáng kiến soạn thảo Hiệp ước TPNW chủ yếu là các nước đang phát triển, họ không hài lòng trước việc không có tiến triển thực tế nào về giải trừ hạt nhân chung và toàn bộ trong khuôn khổ Hiệp ước NTP. Trong vấn đề này, tất cả các cường quốc hạt nhân, kể cả Nga, cũng như các nước thành viên NATO và đồng minh của Mỹ không tham gia soạn thảo nội dung văn kiện và không ủng hộ một thỏa thuận như vậy.

Qua xem xét những điều khoản của Hiệp ước TPNW thấy rằng, văn kiện này có thể tạo ra những rắc rối nhất định trên thực tế đối với những nước đang sở hữu vũ khí hạt nhân. Cụ thể là điểm (e) Điều 1 của văn kiện “không cho phép các nước thành viên được giúp đỡ các bên thứ ba trong việc thực hiện những hoạt động đã bị Hiệp ước ngăn cấm”. Vì vậy sẽ tồn tại một khả năng, lấy ví dụ như Kazakstan chẳng hạn (nước này có ý định ký kết Hiệp ước TPNW) sẽ cấm việc sử dụng những công trình thử nghiệm trên lãnh thổ của mình để tiến hành thử nghiệm các tên lửa đường đạn của Nga với lý do đó là phương tiện mang vũ khí hạt nhân. Vấn đề rắc rối tương tự cũng có thể xảy ra đối với cả Mỹ, nước đang thuê một phần quần đảo Marshall Islands (quốc gia này cũng đồng ý với Hiệp ước TPNW) để thử nghiệm tên lửa (Hiệp định mà Mỹ ký với Marshall Islands có hiệu lực đến năm 2066 và có thể được kéo dài thêm 20 năm). Ngoài ra, theo Điều 7 của Hiệp ước, các quốc gia thành viên sẽ có quyền yêu cầu bồi thường vật chất do việc sử dụng vũ khí hạt nhân trước đây hoặc do hậu quả từ hoạt động thử nghiệm. Nội dung này đặt các cường quốc hạt nhân vào thế bị đe dọa khởi kiện ra tòa, nếu dựa vào cơ chế luật pháp quốc tế mới.

Điều 18 của Hiệp ước cũng gây quan ngại. Nội dung của nó là “Hiệp ước TPNW sẽ không gây phương hại đến cam kết của các nước thành viên ở những hiệp định quốc tế khác chỉ trong trường hợp, nếu các hiệp định này phù hợp với Hiệp ước”. Như thế sẽ nảy sinh một tiền đề có thể dẫn đến phá vỡ toàn bộ hệ thống thỏa thuận nhiều bên hiện nay trong lĩnh vực cấm phổ biến vũ khí hạt nhân mà những yếu tố trụ cột trong hệ thống đó là Hiệp ước TPNW và Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA. Trong vấn đề này, ý định lôi kéo IAEA vào hoạt động thanh sát trong khuôn khổ Hiệp ước TPNW sẽ đe dọa làm sụp đổ chế độ cấm phổ biến vũ khí hạt nhân và làm yếu đi hoạt động của chính tổ chức này. Giải trừ hạt nhân không được nhắc tới trong số những mục tiêu, cũng như chức năng của Cơ quan IAEA, từng được khẳng định rõ ràng trong điều lệ của cơ quan này.

Hiệp ước TPNW mâu thuẫn nghiêm trọng với hiệp ước CTBT và có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc hoàn tất thành lập cơ chế thanh sát của CTBT, cũng như thời hạn bắt đầu có Hiệu lực của hiệp ước CTBT. Tính đến những lập luận như đã nêu ở trên, các quốc gia trong nhóm “5 cường quốc hạt nhân” đã quyết định làm việc riêng với những nước tham gia Hội nghị của Liên Hợp quốc nhằm thuyết phục họ từ bỏ ý định ký kết Hiệp ước về cấm vũ khí hạt nhân (TPNW). Đơn cử, hoạt động như vậy đang được Mỹ thực hiện với Thụy điển, nước ủng hộ rất tích cực cho một văn kiện mới. Trong trường hợp này Wasington đưa ra lý lẽ, theo đó Stokholm sẽ không thể phát triển được quan hệ hợp tác chặt chẽ về quân sự với khối NATO, một liên minh quân sự có qui chế hạt nhân. Hệ quả là NATO dường như sẽ không thể hỗ trợ quân sự một cách hiệu quả cho Thụy Điển trong tình huống khủng hoảng hay xung đột.

Quan điểm của Liên bang Nga đối với Hiệp ước TPNW là chỉ có thể đề ra những bước đi trên hướng giải trừ hạt nhân toàn bộ trong khuôn khổ một quá trình mang tính giai đoạn, với điều kiện củng cố ổn định chiến lược và đảm bảo an ninh ngang bằng cho tất cả các quốc gia mà không phá vỡ hệ thống phối hợp hiện nay trong lĩnh vực cấm phổ biến vũ khí hạt nhân.

Như vậy, chế độ cấm phổ biến vũ khí hạt nhân đang vấp phải những khó khăn nghiêm trọng liên quan đến những vụ vi phạm các hiệp ước quốc tế chủ chốt trong lĩnh vực này. Người ta cho rằng, khó khăn chủ yếu lại là Hiệp ước TPNW. Việc Mỹ và một loạt quốc gia khác từ chối phê chuẩn Hiệp ước CTBT, cũng như việc một số nước tích cực thúc đẩy ký Hiệp ước TPNW là những yếu tố ẩn chứa nguy cơ liên quan đến kiểm soát và cấm phổ biến vũ khí hạt nhân. Lối thoát duy nhất có thể dành cho tình hình hiện nay - là tập hợp đoàn kết các nỗ lực ngoại giao nhằm ngăn cấm phổ biến vũ khí hạt nhân trong khuôn khổ luật pháp quốc tế và sự trung thành với các cam kết theo những thỏa thuận đã ký trong lĩnh vực này./.

Tùng Lâm


Tác giả: PTT. Nguyễn Tùng Lâm
Tổng số điểm của bài viết là: 14 trong 6 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thông báo mới
Thư viện ảnh
Thăm dò ý kiến
GIAO DIỆN

Bạn thấy giao diện của trang website Học viện Lục quân như thế nào?